Ngày 20/7/2018, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Bến Tre tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm án kinh doanh thương mại đối với vụ án “Tranh chấp HĐMB” giữa nguyên đơn Cty TNHH SX – DV – TM T.V.P và bị đơn Cty TNHH XNK P.T.P.

Nội dung vụ án: Cty TNHH SX-TM-DV T.V.P do ông T.Đ.V làm đại diện theo pháp luật khởi kiện yêu cầu Cty TNHH XNK P.T.P do ông H.T.C làm đại diện theo pháp luật trả số tiền 944.158.844đ bao gồm tiền nợ 835.538.800đ, tiền lãi phát sinh từ ngày 09/12/2016 đến ngày 09/01/2018 là 108.620.044đ. Theo lời trình bày của nguyên đơn thì ngày 27/10/2016 Cty T.V.P và Cty P.T.P có ký hợp đồng gia công hàng hóa. Ngày 09/12/2016 Cty T.V.P giao hàng cho Cty P.T.P; tổng cộng số hàng hóa đã giao trị giá 1.135.538.800đ (đã bao gồm thuế). Hai bên có lập biên bản xác nhận hàng hóa với nội dung bên Cty T.V.P (Bên A) giao hàng cho Cty P.T.P (Bên B) do ông H.T.C ký xác nhận đã nhận đủ số lượng với tổng trị giá đã bao gồm thuế VAT là 1.135.538.800đ. Ngày 12/7/2017 Cty P.T.P đã chuyển khoản cho Cty T.V.P 300.000.000đ; số tiền còn lại 835.538.800đ đến nay Cty P.T.P vẫn chưa thanh toán xong. Đối với bị đơn là Cty P.T.P (do ông H.T.C làm đại diện theo PL) cho rằng số máy móc thiết bị trên là của ông P.Q.Đ đặt mua; do ông Đ cũng là thành viên góp vốn của công ty nên số tài sản trên là phần hùn của ông Đ; ông C không đồng ý trả nợ theo yêu cầu của nguyên đơn vì cho rằng số nợ trên là của cá nhân ông Đ chứ không phải là nợ của Cty T.P.T.

Việc ông C cho rằng số nợ 835.538.800đ cùng tiền lãi phát sinh là nợ riêng của ông Đ (là thành viên góp vốn của Cty P.T.P) trong khi mọi giao dịch với Cty T.V.P là do ông C đại diện Cty tiến hành ký và có con dấu xác nhận. Tại phiên tòa ông H.T.C thừa nhận ông có ký tên vào biên bản xác nhận hàng hóa và sử dụng con dấu của Cty để xác nhận việc giao nhận hàng. Hơn nữa, qua các chứng cứ thu thập được thấy rằng tại GCN đăng ký doanh nghiệp cũng như tại Cv số 69/ĐKKD ngày 30/11/2017 của P. ĐKKD thuộc Sở KH&ĐT tỉnh Bến Tre thể hiện Cty P.T.P là Cty TNHH hai thành viên trở lên, đăng ký kinh doanh lần đầu ngày 18/10/2016 do ông H.T.C là người đại diện theo pháp luật. Việc ông C cho rằng số nợ 835.538.800đ cùng tiền lãi phát sinh là nợ riêng của ông P.Q.Đ (là thành viên góp vốn của Cty) trong khi mọi giao dịch với Cty T.V.P là do ông C đại diện Cty tiến hành ký và có con dấu xác nhận. Thấy rằng giao dịch dân sự mua bán hàng hóa với Cty T.V.P được ông C thực hiện nhân danh pháp nhân nên theo quy định tại Điều 87 về TNDS của pháp nhân thì “1. Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân…”. Do đó, đại diện VKS đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Sau phiên tòa, Lãnh đạo Viện kiểm sát ND Thành phố Bến Tre chủ trì tổ chức cuộc họp rút kinh nghiệm cùng với sự tham dự của Lãnh đạo phòng 10, Kiểm sát viên VKS huyện Châu Thành cùng các KSV thuộc bộ phận DS-KDTM-LĐ-HC Viện kiểm sát Tp. Bến Tre. Thông qua cuộc họp, nhiều ý kiến đóng góp của các đồng chí đã chỉ ra được những ưu điểm, khuyết điểm của KSV trong quá trình kiểm sát việc tuân theo pháp luật tố tụng và nội dung giải quyết vụ án. Qua đó, nhằm đề cao trách nhiệm, kỷ năng của kiểm sát viên để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát giải quyết các vụ, việc dân sự - KDTM – HC trong thời gian tới./.

Thiên An – Viện KSND TP Bến Tre